Cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA: Cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu (02/08/2010) In

Bà Nguyễn Thị Bích, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Tài chính) cho biết Việt Nam đã tích cực chuẩn bị để làm quen với CEPT/AFTA. Bà Bích cho rằng: “Do có sự chuẩn bị từ trước, nên việc cắt giảm thuế nhập khẩu trong khuôn khổ Hiệp định ưu đãi thuế quan Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN  (CEPT/AFTA) không ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất - kinh doanh, thu ngân sách”.

Thưa bà, lộ trình cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA năm 2010 được thực hiện đến đâu?

Theo Quyết định 36/2008/QĐ-BTC về việc ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện CEPT/AFTA giai đoạn 2008-2013, trong năm 2010, Việt Nam áp dụng mức thuế nhập khẩu 0-5% đối với 99% dòng thuế nhập khẩu từ ASEAN, trong đó 57% số dòng thuế chỉ có thuế nhập khẩu là 0%. Tuy nhiên, ngay từ năm 2006, Việt Nam đã cắt giảm hầu hết các dòng thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN, trong đó, số dòng thuế có mức thuế suất từ 0% - 5% chiếm đa số, nên hiện chỉ còn một số mặt hàng tương đối nhạy cảm như xăng dầu, ô tô, mô tô phân khối lớn, thuốc lá… chưa được áp mức thuế 0-5%.

Như vậy có nghĩa là năm 2010, việc cắt giảm thuế nhập khẩu để thực hiện CEPT/AFTA không ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất cũng như thu ngân sách?

Đúng vậy. Ngay sau khi gia nhập ASEAN (năm 1995), chúng ta đã cam kết thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các nước trong khu vực. Theo đó, từ năm 1996, Việt Nam bắt đầu cắt giảm thuế nhập khẩu và trong vòng 10 năm, tức là đến năm 2006 sẽ giảm dần thuế nhập khẩu từ các nước trong khu vực xuống chủ yếu còn từ 0% - 5%. Trong giai đoạn này, Chính phủ, các bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp (DN) đã có sự chuẩn bị tích cực để “làm quen” với việc không còn ranh giới về thuế giữa hàng sản xuất trong nước và hàng sản xuất tại các nước ASEAN.

Nhưng số thu ngân sách từ thuế nhập khẩu chắc chắn sẽ giảm cùng với lộ trình cắt giảm thuế suất, thưa bà?

Có ảnh hưởng, nhưng không nhiều, nếu bù trừ do kim ngạch xuất-nhập khẩu tăng hàng năm, thì thu ngân sách từ hoạt động xuất-nhập khẩu không giảm, thậm chí còn tăng. Cụ thể, trong cơ cấu thương mại thì kim ngạch xuất-nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN chỉ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất-nhập khẩu hàng năm của cả nước, nên ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế đối với thu ngân sách không lớn. Hơn nữa, ngoại trừ năm 2009, kim ngạch xuất-nhập khẩu của Việt Nam hàng năm thường tăng trưởng ở mức 2 con số nên số thu từ hoạt động xuất-nhập khẩu cũng tăng lên nhờ thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu.

Bà đánh giá thế nào về sự cạnh tranh của hàng hoá trong nước với hàng hoá nhập khẩu từ khu vực ASEAN khi cắt giảm thuế nhập khẩu?

Trình độ kinh tế của các nước trong khu vực ASEAN (ngoại trừ Singapore) có nét tương đồng với Việt Nam. Vì thế, trên thị trường nội địa, hàng hoá sản xuất tại những quốc gia này không phải là đối thủ cạnh tranh lớn đối với hàng hoá sản xuất trong nước.

Nhưng ở khía cạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cùng với việc cắt giảm thuế nhập khẩu, một số DN nước ngoài như Sony chẳng hạn, sau 14 năm đầu tư, đã rút khỏi Việt Nam để đầu tư vào nước khác trong khu vực?

Nếu nói việc giảm thuế nhập khẩu sẽ khiến nhiều công ty đa quốc gia rút khỏi Việt Nam để mở rộng đầu tư hoặc đầu tư mới vào những nước khác, thì vì sao hàng loạt công ty đa quốc gia, đặc biệt là các DN Nhật Bản lại tiếp tục mở rộng đầu tư hoặc đầu tư mới vào Việt Nam? Tôi cho rằng, việc chuyển địa điểm sản xuất của các công ty xuyên quốc gia là chính sách toàn cầu của họ, chứ không phải do chúng ta cắt giảm thuế nhập khẩu.

Năm 2010, 6 nước ASEAN cũ gồm Brunei, Indonesia, Thái Lan, Philippines, Malaysia và Singapore cắt giảm toàn bộ thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN xuống còn 0%. Theo bà, đây có phải là cơ hội để Việt Nam xuất khẩu hàng hoá sang những quốc gia này?

Việc 6 quốc gia ASEAN mở cửa hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác trong nội khối chính là điều kiện để các DN trong nước đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường ASEAN. Tuy nhiên, để tiếp cận vào các thị trường này, DN cần phải lưu ý một số điểm.

Thứ nhất, cần phải nắm rõ thị hiếu, sở thích, phong tục, tập quán và văn hoá, thói quen tiêu dùng của người dân từng quốc gia.

Thứ hai, mặc dù họ mở cửa hoàn toàn, nhưng nước nào cũng có hàng rào kỹ thuật để bảo vệ sản xuất trong nước. Vì vậy, DN cần phải nghiên cứu thật kỹ khi thâm nhập vào thị trường từng nước.

Theo Đầu Tư

 

Cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA: Cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu (02/08/2010)