Tin Thuế Mới 

Tin tuc thue,thue tndn,thue tncn,thue gtgt,thue khac,quyet toan thue

 

Tin Tức Kế Toán

Tin tuc ke toan, hoc ke toan, nghien cuu ke toan, he thong ke toan

Một số vấn đề cân nhắc trong chính sách và quản lý thuế đối với hoạt động bán hàng đa cấp (01/09/2010) In E-mail

 

Như một hệ quả tất yếu của quá trình mở rộng giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động bán hàng đa cấp (BHĐC) đã xuất hiện tại Việt Nam và đang có xu hướng phát triển. Phương thức kinh doanh này đã và đang được các nhà quản lý chú ý để đề xuất những quy định pháp luật nhằm điều chỉnh, dẫn dắt hoạt động đúng hướng, lành mạnh, bảo đảm trật tự xã hội, hài hòa quyền lợi của cộng đồng người tiêu dùng, những người tham gia mạng lưới và các doanh nghiệp (DN) làm ăn chân chính.

Sau khi Tạp chí Tài chính điện tử số 81 (ngày 15/3/2010) và số 82 (ngày 15/3/2010) có các bài viết gợi mở, đến nay đã có một số nghiên cứu đề xuất những vấn đề lớn cần có quy định để quản lý hoạt động BHĐC. Trong bài viết này, xin giới thiệu với bạn đọc một trong những tài liệu nghiên cứu đó.

1- Đặc điểm của hoạt động bán hàng đa cấp và những vấn đề cần cân nhắc trong chính sách và quản lý thuế

Bán hàng đa cấp hay kinh doanh theo mạng (multi level marketting) là hoạt động kinh doanh bán hàng trực tiếp sản phẩm từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng và chỉ dành riêng cho hoạt động tiếp thị trên thị trường hàng hoá chứ không dành cho thị trường dịch vụ. Khác với hoạt động kinh doanh bán hàng truyền thống, DN bán hàng đa cấp không phải tổ chức các điểm bán hàng cố định; nhiều trường hợp không phải tổ chức hệ thống kho tàng. Những người tham gia mạng lưới (NTGML) sẽ bán trực tiếp tại nơi ở của người mua hàng hoặc một nơi khác thuận lợi nhất. Mạng lưới BHĐC có được nhiều người bán hàng mà không phải trực tiếp trả lương, không bị ràng buộc bởi Bộ Luật lao động. Với đặc điểm NTGML vừa bán hàng đồng thời cũng là người cung ứng, người giới thiệu, tiếp thị sản phẩm, người tiêu dùng có lợi thế là không bị mua phải hàng giả, hàng nhái khi tham gia vào hệ thống BHĐC của những DN hoạt động chân chính. Ngược lại, doanh nghiệp BHĐC cũng phải lựa chọn hàng hóa của những nhà sản xuất có uy tín và đặc biệt là phải có cơ chế kiểm sóat những NTGML để ngăn ngừa việc đưa vào mạng lưới các hàng ngoài luồng, hàng kém chất lượng. Trong các chỉ tiêu quản trị, điều hành, phát triển mạng lưới bán hàng, các doanh nghiệp BHĐC thường chú trọng vào việc quy định mức giá trần của sản phẩm và các cấp độ về lợi ích đối với những NTGML. Theo đó, những NTGML/ nhà phân phối được chia thành nhiều cấp độ khác nhau và hưởng các lợi ích khác nhau tuỳ thuộc vào kết quả bán hàng của cá nhân và của cả nhóm do NTGML/nhà phân phối trước đó bảo trợ. Các cấp độ từ thấp đến cao gồm có: nhà phân phối mới, trợ lý giám sát, giám sát, trợ lý quản lý và cấp cao nhất là quản lý. Từ những đặc điểm trên cho thấy trên giác độ chính sách và quản lý thuế đối với hoạt động BHĐC cần quan tâm đến các vấn đề sau:

Một là, cơ chế quy định giá trong hệ thống của mỗi doanh nghiệp BHĐC: Cần phải trao đổi kỹ và làm rõ vấn đề có quy định về cơ chế định giá bán hay không? Việc này cần xuất phát từ tính chất của từng hoạt động hay phương thức bán hàng. Bán hàng đa cấp khác xa với phương thức bán hàng qua phương thức đại lý bán đúng giá hưởng hoa hồng; tuy nhiên, đây cũng không giống cơ chế bán hàng thoả thuận, mua đứt bán đoạn bởi cách thức phát triển mạng lưới.

Hai là, quản lý doanh thu của doanh nghiệp BHĐC như thế nào ? Vấn đề cốt lõi trong quản lý DN cũng như quản lý thuế đòi hỏi phải nắm được doanh thu bán hàng của toàn hệ thống. Bản thân các doanh nghiệp BHĐC trong tổ chức điều hành mạng lưới bán hàng luôn quan tâm và có quy định ràng buộc để quản lý được doanh thu của họ. Do đó, trong quản lý thuế đối với BHĐC không thể không nắm chắc các quy định của từng doanh nghiệp về mức giá trần của từng sản phẩm và tỷ lệ % hoa hồng khác nhau ở từng cấp độ nhà phân phối.

Ba là, vấn đề quản lý chi phí làm cơ sở xác định thu nhập tính thuế đặt ra yêu cầu phải phân biệt rõ vị trí của từng loại nhân viên trong hệ thống. Rõ ràng là những nhân viên bán hàng trong mạng lưới là những NTGML/nhà phân phối nên không thể có tiền lương mà chỉ được hưởng tiền hoa hồng và các lợi ích khác (nếu có). Thực tế cho thấy khỏan chi phí hoa hồng trả cho NTGML/nhà phân phối là rất lớn và đây là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi phí của doanh nghiệp BHĐC.

Bốn là, nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với NTGML/nhà phân phối: NTGML nhận được thu nhập sẽ tự kê khai thuế TNCN hay thực hiện khấu trừ thuế tại nguồn bởi các doanh nghiệp BHĐC. Nếu thực hiện khấu trừ thì áp dụng tỷ lệ 10% đối với những món có trị giá 500.000 đồng/lần trở lên hay khấu trừ theo Biểu thuế lũy tiến từng phần ? Tính khấu trừ trên tổng số tiền cá nhân được hưởng hay cho loại trừ một phần bởi thu nhập thực của cá nhân là bao nhiêu khi họ phải tự trả tiền chi phí đi lại, bảo quản, vận chuyển hàng hóa, mở các lớp huấn luyện người tham gia mới, tổ chức các cuộc hội thảo,… chỉ trong khuôn khổ tỷ lệ % hoa hồng có được ? Có đặt ra việc xem xét thuế TNCN đối với NTGML/nhà phân phối được nhận tỷ lệ % hoa hồng trong mối quan hệ với quản lý chi phí của doanh nghiệp BHĐC hay không ?

2- Hoa hồng trả cho nhà phân phối có được tính tòan bộ vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập hay chịu tỷ lệ khống chế 10% hoặc 15%?

Những nhà phân phối cá nhân khi tham gia vào hệ thống của một doanh nghiệp BHĐC được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ % trên doanh số bán ra. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp BHĐC đã thực hiện đúng cam kết trả hoa hồng cho NTGML/nhà phân phối nhưng thường xảy ra vướng mắc, tranh chấp, khiếu kiện là tỷ lệ % hoa hồng có được tính tòan bộ vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của DN hay phải chịu tỷ lệ % khống chế ? Đã có nhiều tranh luận cho rằng cơ chế đối với những NTGML trong mạng lưới BHĐC cũng giống như mạng lưới Đại lý cá nhân của các DN kinh doanh bảo hiểm, vậy không có lý do gì áp dụng quy định phân biệt đối xử giữa hoa hồng bán hàng của doanh nghiệp BHĐC với hoa hồng đại lý của DN kinh doanh bảo hiểm !?.

Để góp phần làm sáng tỏ các vấn đề nêu tại điểm này, chúng ta hãy xem xét kỹ hơn những lợi ích của NTGML/nhà phân phối trong mạng lưới BHĐC để tìm ra những điểm giống và khác nhau so với các đại lý bảo hiểm.

Từ đặc điểm của hoạt động BHĐC đã nêu ở phần trên cho thấy: Trong mỗi một doanh nghiệp BHĐC đều quy định một mức giá tối đa và NTGML không được bán sản phẩm vượt quá mức giá quy định này. Tuỳ thuộc vào kết quả bán hàng của cá nhân và của cả nhóm, NTGML được chia thành nhiều cấp độ khác nhau và hưởng các lợi ích khác nhau: nhà phân phối mới; trợ lý giám sát; giám sát; trợ lý quản lý và cấp cao nhất là quản lý. Các lợi ích mà NTGML/nhà phân phối được hưởng bao gồm:

- Khoản chênh lệch giá: đây là lợi ích mà tất cả những NTGML/nhà phân phối đều nhận được, kể cả nhà phân phối mới. Theo đó, doanh nghiệp BHĐC sẽ bán cho nhà phân phối với mức giá thấp hơn mức giá công bố bán đến tay người tiêu dùng (mức giá trần). NTGML/nhà phân phối được quyền bán lại cho người tiêu dùng với mức giá tuỳ ý nhưng không được vượt quá mức giá trần, do đó doanh nghiệp BHĐC không kiểm soát được khoản thu nhập từ chênh lệch giá này của NTGML/nhà phân phối và cũng không thể khấu trừ được thuế TNCN của nhà phân phối. Hiện nay, cơ quan thuế cũng không có cơ sở để thu được thuế TNCN đối với khoản thu nhập này của nhà phân phối, bởi vì: (i) Nhà phân phối là cá nhân không phải đăng ký kinh doanh, do đó việc quản lý các nhà phân phối này là không dễ dàng; (ii) không thể xác định được chính xác khoản thu nhập từ chênh lệch giá của nhà phân phối để làm căn cứ tính thuế.

- Hoa hồng cá nhân: là khoản tiền hoa hồng mà doanh nghiệp BHĐC trả cho thành tích bán hàng của cá nhân NTGML và thành tích bán hàng của những nhà phân phối mới được cá nhân này bảo trợ. Tỷ lệ hoa hồng cá nhân nhận được tuỳ thuộc vào vị trí của NTGML/nhà phân phối trong mạng lưới phân phối (ví dụ tại công ty Lô Hội, hoa hồng cá nhân của cấp trợ lý giám sát là 5%; cấp giám sát là 8%; cấp trợ lý quản lý là 13%; cấp quản lý là 18%. Nhà phân phối mới không được nhận hoa hồng cá nhân, mà sẽ được tính vào thành tích bán hàng cá nhân của người bảo trợ).

- Hoa hồng khối lượng: là khoản tiền hoa hồng công ty BHĐC trả cho NTGML/nhà phân phối trên tất cả thành tích bán hàng theo nhóm của các trợ lý giám sát, các giám sát và trợ lý quản lý được cá nhân bảo trợ. NTGML là nhà phân phối mới và trợ lý giám sát không được hưởng hoa hồng khối lượng.

Các doanh nghiệp BHĐC đã và đang thực hiện khấu trừ thuế TNCN và nộp vào NSNN theo quy định đối với thu nhập từ khoản tiền hoa hồng cá nhân và hoa hồng khối lượng của NTGML/nhà phân phối.

Những nhận biết trên đây cho thấy bức tranh so sánh về các khỏan chi hoa hồng của doanh nghiệp BHĐC và chi hoa hồng cho các đại lý bảo hiểm trong DN bảo hiểm như sau:

+ Điểm giống nhau của hoạt động BHĐC và kinh doanh bảo hiểm đều có 2 loại hoa hồng là hoa hồng trả trực tiếp cho thành tích bán hàng cá nhân và hoa hồng trả cho thành tích phát triển mạng lưới phân phối, chỉ trả cho những nhà phân phối được lên cấp quản lý (hoa hồng cá nhân trong BHĐC và hoa hồng khối lượng trong BHĐC; hoa hồng bảo hiểm do DN bảo hiểm trả trực tiếp cho DN môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm).

+ Khác nhau: Trong hoạt động BHĐC ngoài các khoản hoa hồng, nhà phân phối còn có thu nhập từ khoản chênh lệch giá (do mức giá doanh nghiệp BHĐC bán cho nhà phân phối thấp hơn mức giá trần quy định bán cho người tiêu dùng). Trái lại, mức phí bảo hiểm (giá dịch vụ bảo hiểm) do các DN bảo hiểm quy định trước; đại lý bảo hiểm hoặc người môi giới bảo hiểm chỉ được hưởng mức hoa hồng bảo hiểm tính trên tổng phí bảo hiểm thu được. Ngoài ra, đại lý bảo hiểm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, mức hoa hồng do các DN bảo hiểm quy định nhưng không được vượt quá giới hạn theo quy định của pháp luật (từ 5% đến 20% tổng phí bảo hiểm thu được, tuỳ thuộc từng loại hình bảo hiểm). Trong khi đó, hoạt động phân phối tham gia BHĐC không phải là hoạt động kinh doanh có điều kiện, mức hoa hồng môi giới do các doanh nghiệp BHĐC tự thiết lập, không bị giới hạn.

Hiện nay, việc xác định tính chất của khoản chi phí hoa hồng trả cho NTGML/nhà phân phối trong hoạt động BHĐC để xếp vào loại chi phí nào, có bị giới hạn hay không cho mục đích tính thuế còn chưa rõ ràng bới những quy định pháp luật còn có khỏang cách với thực tiễn. Đó là:

- Theo quy định tại khỏan 2(n), Điều 9 của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14//2008/QH12 thì DN không được tính vào chi phí được trừ đối với: “Phần chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới; chi tiếp tân, khánh tiết, hội nghị; chi hỗ trợ tiếp thị, chi hỗ trợ chi phí, chiết khấu thanh toán; chi báo biếu, báo tặng của cơ quan báo chí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh vượt quá 10% tổng số chi được trừ; đối với doanh nghiệp thành lập mới là phần chi vượt quá 15% trong ba năm đầu, kể từ khi được thành lập. Tổng số chi được trừ không bao gồm các khoản chi quy định tại điểm này; đối với hoạt động thương mại, tổng số chi được trừ không bao gồm giá mua của hàng hóa bán ra;”

- Xét về tính chất, đạo lý kinh tế thì khoản hoa hồng mà doanh nghiệp BHĐC trả cho NTGML/nhà phân phối bao hàm nhiều loại chi phí khác nhau. Trong đó có một phần mang dáng dấp của chi phí tiền lương, tiền công (được tính toàn bộ vào chi phí hợp lý); một phần là chi phí quảng cáo, tiếp thị (bị khống chế 10% hoặc 15%); một phần có thể coi là khoản chi phí bán hàng, phát triển hệ thống; một phần có thể coi là chi phí vận chuyển, bảo quản, kho bãi trả trực tiếp cho cá nhân bán hàng bởi họ trực tiếp lo các việc này,…Tuy nhiên, trên thực tế, việc tách chi phí hoa hồng ra thành từng loại chi phí như trên khi tính thuế TNDN là không khả thi.

Từ những quy định của pháp luật về thuế TNDN, pháp luật về cạnh tranh và thực tiễn hoạt động BHĐC trong thời gian vừa qua đã có ý kiến khác nhau:

Ý kiến thứ nhất cho rằng trong giai đoạn hiện nay khi chưa có quy định quản lý chặt chẽ hoạt động BHĐC thì đối với khoản chi hoa hồng trả cho nhà phân phối cần thiết phải có quy định khống chế theo hướng phải tính cho được tỷ trọng dành cho quảng cáo, tiếp thị, môi giới. Cơ sở đề xuất của ý kiến này là thực tế hiện nay hoạt động BHĐC gây thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng xấu đến xã hội nhiều hơn lợi ích mà hoạt động này đem lại. Không tính đến các trường hợp công ty BHĐC làm ăn bất chính, lừa đảo người tiêu dùng thì đối với các công ty BHĐC hoạt động theo quy định của pháp luật, khoản chênh lệch giá và các chi phí hoa hồng trả cho nhà phân phối như nêu trên đã làm giá của sản phẩm đội lên rất nhiều so với giá trị, công dụng thực tế của sản phẩm. Việc khống chế tỷ lệ hoa hồng trả cho NTGML/nhà phân phối được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế TNDN cũng là một trong các công cụ góp phần quản lý, điều tiết hoạt động BHĐC.

Trái lại, ý kiến thứ hai cho rằng theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật doanh nghiệp thì mọi cam kết dân sự giữa doanh nghiệp BHĐC, trong đó có quan hệ giữa DN với NTGML/nhà phân phối đã được quy định trong Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định về BHĐC thì khỏan hoa hồng này không thể bị khống chế khi các bên trong giao dịch dân sự thực hiện đầy đủ cam kết. Như đã phân tích ở phần trên, một khỏan chi chứa đựng nội dung kinh tế và được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau mà các quy định của pháp luật hiện hành không có tiêu chí cụ thể để phân định thì phải tôn trọng nguyên tắc cao nhất của Bộ luật dân sự.

Ngoài ra, cũng cần xét đến quy định của pháp luật liên quan đối với hoạt động kinh tế tương tự là tòan bộ các khỏan chi hoa hồng bảo hiểm trả cho người môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm của các công ty bảo hiểm đã được tính vào chi phí được trừ, không bị khống chế theo tỷ lệ % (điểm g khoản 2 Điều 9 NĐ 124/2008/NĐ-CP). Ủng hộ đề xuất của ý kiến thứ 2 là mối quan hệ tương quan giữa thuế TNDN và thuế TNCN: Khoản chi hoa hồng mà doanh nghiệp BHĐC trả cho NTGML/nhà phân phối nếu đã được khấu trừ thuế TNCN thì càng không thể khống chế chi phí được trừ của doanh nghiệp BHĐC.

Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các ý kiến nêu trên, chúng tôi cho rằng vấn đề này cần sớm được trình lên cấp có thẩm quyền là Bộ trưởng Bộ Tài chính để sớm có hướng dẫn, tạo thuận lợi cho việc thực thi pháp luật thuế.

(Th.S. Nguyễn Văn Phụng, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách Thuế - Bộ Tài chính)

Theo taichinhdientu

 

Một số vấn đề cân nhắc trong chính sách và quản lý thuế đối với hoạt động bán hàng đa cấp (01/09/2010)
 

 

Nhấn vào G+1 nếu thấy thông tin hữu ích với bạn!